Tiếp đó: "Phàm ngã tử tôn đối nghi thế niệm, nhập hiếu, xuất để, tử đệ chức võ hoặc khuy. Hành lệ học cần, môn địa chi cao như khả úy…", nghĩa là: "Con cháu ta cần ghi nhớ, giữ lấy đạo hiếu. Phận con em không được thiếu sót bổn phận của mình. Trau dồi đức hạnh, cần mẫn học hành để địa vị của dòng họ được nâng cao, đó là điều mong ước".
Câu khác rất thâm thúy: "Cung kính lúc gần các bậc trên/ Khiêm nhường lúc gặp mọi tầng lớp". Lời cụ Xán răn dạy cháu con phải luôn tiết kiệm để gia đình sung túc, làm điều thiện để được tiếng tốt; phải dứt bỏ thói kiêu căng của kẻ giàu sang quyền quý, giữ nếp thanh bạch của một dòng họ danh tiếng xưa nay. Lúc hiển đạt cần nêu gương tốt với người, nếu có nghèo hèn cũng phải giữ lấy thanh danh dòng họ…
"Bởi vậy, con cháu dòng họ Hoàng đời đời nối tiếp nhau giữ trọn đạo hiếu, dù sống trong cảnh sang giàu hay nghèo hèn phải luôn tu thân, trau dồi đức hạnh, khiêm tốn, giữ nếp sống thanh bạch, liêm khiết… Lời của cụ như là kim chỉ nam để cho con cháu hướng mà đi" - cụ Hoàng Tư Bảnh bày tỏ.
"Hoàng thị gia huấn" đúc kết: "Đắp xây gian khổ như leo núi/ Phá hủy dễ dàng tựa đốt long", được cụ Bảnh giải thích đây thực sự là di ngôn cho hậu thế đời sau phải tự lấy đó mà răn mình, lấy đó mà cố gắng.
Trong chiến tranh, nhà thờ họ Hoàng bị bom Mỹ phá hỏng. Riêng tấm bia đá khắc "Hoàng thị gia huấn" được con cháu cố công cất giữ nên phần nội dung khá nguyên vẹn nhưng cũng đã phai mờ theo năm tháng. Mãi đến năm 2000, cháu con người góp công, người góp của để phục dựng lại nhà thờ họ Hoàng.
Giữ trọn đạo nhà
Thể theo di ngôn mà "Hoàng thị gia huấn" răn dạy, các con của cụ tiếp nối truyền thống khoa bảng của cha, giữ trọn đạo nhà, tu chí học hành, thi cử đỗ đạt và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình. Con trưởng của cụ Xán là Hoàng Kế Thảng được bổ nhiệm chức Viên ngoại lang Bộ Hình - hàm chánh nhất phẩm; con thứ Hoàng Kế Nhiệu giữ chức Hữu phó Đô đốc Ngự sử trong Đô Sát Viện…
Nhưng nổi tiếng hơn cả là cụ Hoàng Kế Viêm (1820-1909), được tấn phong Hiệp biện Đại học sĩ. Cụ giữ đến chức Thống đốc quân vụ Tiết chế Bắc Kỳ, nổi tiếng với nhiều trận đánh chống Pháp ở Hà Nội dưới thời nhà Nguyễn.
Nhân trùng tu đền thờ dòng họ, cụ Hoàng Kế Viêm đã cho đúc chiếc "minh chuông" và tự mình soạn thảo bài văn ngắn bằng chữ Hán khắc lên chuông để cung tiến dòng tộc và ý nghĩa dạy bảo cháu con. Chiếc chuông cao 75 cm, bề ngang 55 cm và nặng hơn 7,5 kg. Thoạt nhìn không có gì đặc biệt nhưng nhìn kỹ thì đỉnh chuông treo đúc hình đôi rồng chầu với nhiều hoa văn tinh xảo. Chuông được khắc chạm chữ Hán 4 mặt ghi niên đại năm Bính Thìn (1856).
"Tiếng chuông trong sáng lan tỏa khắp không trung, với những âm thanh thầm kín, tràn trề, vang vọng kéo dài rực rỡ. Ai nghe mà không khỏi gợi cảm những đức tính thuận hòa tươi đẹp, không khỏi cảm xúc một tấm lòng kính cẩn tôn nghiêm. Ai nghe cũng thấm thía từ các âm tốt lành, có đức, cứ đi xa dần không đứt đoạn nhưng vẫn lắng đọng lại trong lòng những người của thế hệ ngày mai. Tự Đức năm thứ 9, mùa xuân năm Bính Thìn. Con út Viêm cúi xin được khắc lên chuông" - nội dung khắc trên chuông.
Cụ Bảnh cho biết cứ mỗi lần giỗ, trưởng họ lại mang chuông ra đánh liên hồi, tiếng chuông ngân lên trong lòng con cháu dâng trào cảm xúc tưởng nhớ đến tổ tiên với tấm lòng thành kính, tôn nghiêm. Mỗi hồi chuông là một lời nhắc nhở cháu con lắng đọng ân đức sâu nặng của tổ tiên, khơi dậy những truyền thống, đức tính tốt đẹp của dòng tộc. Từ đó, luôn ra sức học hành, thi cử và làm những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
Sau này, do bối cảnh chiến tranh và sợ bị kẻ gian lấy trộm, chuông được con cháu đưa về cất giữ tại Khu lăng mộ và Đền thờ Hoàng Kế Viêm, cách Nhà thờ họ Hoàng chừng 500 m. Khu lăng mộ này được UBND tỉnh Quảng Bình công nhận là Di tích lịch sử cấp tỉnh năm 2011 và đã đệ trình cơ quan chức năng công nhận Di tích lịch sử cấp quốc gia.
Kế thừa truyền thống khoa bảng của tổ tiên và lời răn dạy, cháu con họ Hoàng đời trước nối gót đời sau tiếp tục học hành giỏi giang và thi cử đỗ đạt, thời phong kiến có nhiều người ra làm quan. Sau các cụ Hoàng Kim Xán và Hoàng Kế Viêm, nổi bật còn có cụ Hoàng Trọng Vỹ (đời thứ 7) giữ chức Tuần phủ Quảng Yên, sau được thăng chức Hiệp biện Đại học sĩ.
Ông Trần Hữu Danh, nhà nghiên cứu về lịch sử Quảng Bình, đánh giá ra đời đã gần 200 năm, trải qua thời gian cùng sự vận động và biến đổi không ngừng của đời sống xã hội, "Hoàng thị gia huấn" vẫn giàu sức sống trong xã hội đương đại. Bản gia huấn này sẽ mãi là di sản tinh thần vô giá của dòng họ Hoàng để răn dạy con cháu.
Nguồn: Vietbao